Thursday, November 15, 2012

Tên huý, tên tự và tên hiệu của cổ nhân

Coi phim Thuỷ Hử và Tam Quốc Diễn Nghĩa, thấy bậc nho sĩ, tao nhân mặc khách, giang hồ hảo hán ngày xưa hay có vụ ngoài tên huý do cha mẹ, ông bà đặt lúc mới sinh, còn có tên tự và tên hiệu. [1]

Tên tự thì thường khi đủ 20 tuổi, được coi là trưởng thành, có thể tự thân lập nghiệp sẽ do ông bà, cha mẹ hoặc tự mình đặt. Tên tự được sử dụng song song với tên huý. Ý nghĩa của việc đặt tên tự là quan niệm người đã trưởng thành, có thể thành gia lập thất, có con cái, nên không thể dùng tên huý để gọi nữa, mà phải dùng tên tự, biểu thị sự kính nể. Tên tự thường có ý nghĩa liên quan đến tên huý để bổ nghĩa.

Ngoài tên tự ra, một người khi đã thành danh, có tên tuổi, uy tín trong xã hội, người ta còn tự đặt cho mình tên hiệu. Mục đích của việc đặt tên hiệu là để gửi gắm quan điểm, tư tưởng, chí hướng, hoài bão của người đó vào biệt hiệu của mình. Tên hiệu, ngoài việc do mình tự đặt ra, còn có tên hiệu do giang hồ đặt, gọi là ngoại hiệu.

Ví dụ: [2]
Ở Trung Quốc:
- Khổng Khâu, tự Trọng Ni, hiệu Khổng Phu Tử (hay Khổng Tử).
- Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, hiệu Ngoạ Long tiên sinh.
- Bàng Thống, tự Sỹ Nguyên, hiệu Phượng Sồ: hồi trước có người khen mình giống Bàng Thống trong Tam Quốc Chí, mình tưởng họ có ý khen mình tài. Sau này coi Tam Quốc Chí mới biết ý của họ là nói mình dung mạo xấu xí nhưng được cái liều giống Bàng Thống.
- Hô Bảo Nghĩa, Cập Thời Vũ, Tống Giang, Tống Công Minh: ông này thì tên là Tống Giang, nhưng nhiều danh xưng quá, chẳng biết cái nào là tự, cái nào là hiệu.

Ở Việt Nam:
- Ngô Tuấn, tự Thường Kiệt, về sau theo họ vua là họ Lý, nên thường được gọi là Lý Thường Kiệt. Được vua Lý Nhân Tông ban cho hiệu Thiên tử nghĩa đệ.
- Chu Văn An, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều ẩn và Khang Tiết Tiên sinh.
- Nguyễn Du, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ.
- Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, tự Miễn Chi, hiệu Quế Sơn, về sau đỗ Tam Nguyên nên được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. (Yên Đổ là nơi ông sống và mất sau khi cáo quan).

Thấy vụ đặt tên tự và tên hiệu này cũng hay hay, giống như kiểu nickname bây giờ. Nhưng nickname thì nhiều lúc khó đọc, hoặc không đọc được vì dùng ký hiệu và viết không theo cấu trúc ngữ pháp. Còn tên tự và tên hiệu, nếu đặt theo chữ Hán Việt, thì lại có nghĩa, mà đọc cũng thấy thú vị.

Đang lúc rảnh rỗi, nên cũng tự nghĩ ra một cái tên tự và tên hiệu, đọc cho vui vui:
- Nguyễn Việt Thắng, tự Nguyễn Áp Tử (Áp là con vịt), hiệu Linh Cầm Thú (Cầm là gia cầm, Thú là loài thú, Linh là tâm linh, có nghĩa là Thú mỏ vịt có siêu năng lực). Tật hay nói chuyện nhảm, nên giang hồ có thể gọi là Nhảm Phong, Linh Cầm Thú, Nguyễn Áp Tử. Gọi ngắn gọn là Con Vịt!!! ^^



Chú thích
[1] Khái niệm tên huý, tên tự và tên hiệu được tham khảo tại đây:
http://vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/3515-tim-hieu-ve-danh-tu-hieu-cua-nguoi-xua.html
[2] Ví dụ tham khảo từ wikipedia.org

No comments:

Post a Comment